Các lưu phái của Nga Mi quyền Nga Mi (võ phái)

Theo các tài liệu tiếng Anh của người Trung Hoa viết và một số tài liệu được cho là của Giáo sư Vũ Đức thì Nga Mi Võ Phái có 5 lưu phái và 8 bộ môn quyền thuật [3].

5 lưu phái của Nga Mi:

  1. Hoàng Lăng Phái (Huangling Pai): Nguyên được truyền từ tỉnh Thiểm Tây vào.
  2. Điểm dị phái (Dianyi Pai): Được mang tên từ Điểm Dị động thuộc Bồi Lăng,thịnh hành tại vùng phía đông Tứ Xuyên.
  3. Thanh Thành phái (Qingchen Pai): Được mang tên từ thắng cảnh Thanh Thành, thịnh hành tại vùng phía đông Tứ Xuyên.
  4. Thiết Phật phái (Tiefo Pai hay Iron Buddha): (còn gọi là Vân Đỉnh phái), thịnh hành tại vùng phía bắc Tứ Xuyên.
  5. Thanh Ngưu phái (Qingniu Pai hay Black Cow): lấy tên từ núi Thanh Ngưu, thuộc phía đông Tứ Xuyên.

Về hệ thống quyền thuật thì có 8 bộ môn quyền thuật - còn gọi là "Bát Diệp"

  1. Tăng môn (Zhen Men): theo truyền thuyết của võ phái thì đây là tên từ một nhà sư Thiếu Lâm, còn có tên khác là "Thâm môn". Đặc trưng kỹ pháp là: khéo léo (xảo), biến ảo (diệu), uyển chuyển (linh, hoạt), liên tục không ngừng (động).
  2. Khưu môn (Yue Men): Do Nhạc Phi truyền, có đặc điểm là các thế tấn hạ trọng tâm xuống (trang thấp), các chiêu thức thủ pháp thường chuyển động theo đường tròn tạo ra lực ly tâm.
  3. Triệu môn (Zhao Men): Có lời tương truyền rằng hệ phái này do Tống thái tổ Triệu Khoang Âm (Triệu Khuông Dẫn) truyền, có nhiều đặc điểm phong cách và quyền pháp của Trường quyền Thiếu Lâm (cũng do Triệu Khoang Âm truyền), do chủ yếu luyện Hồng quyền nên còn được gọi là "Hồng Môn". Sau này Hồng Môn có tham gia lập bang hội gọi là Hồng Bang Hội trong phong trào phản Thanh phục Minh và tự xưng là Hồng quyền khiến cho nhiều người lầm lẫn với Hồng Gia Quyền của Hồng Hy Quan ở Quảng Đông.
  4. Đỗ môn (Du Men): Theo truyền thuyết được lấy tên từ trận đồ "Đỗ môn" của Gia Cát Lượng, cho rằng quyền pháp truyền cho Đỗ Quan Ấn -Tự Nhiên Môn, có đặc điểm là quyền pháp nghiêm ngặt và kín đáo (phong tỏa cẩn mật), chủ về phòng thủ (lấy thủ chế công).
  5. Hồng môn (Hong Men): Theo lời truyền tụng dân gian được lấy tên từ niên hiệu Hồng Võ Diên Niên của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Chủ yếu luyện Đại Hồng Quyền, Tiểu Hồng Quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, chú trọng cương kình dũng mãnh, thế quyền nhanh mạnh, bộ pháp vững chãi và rất linh hoạt.
  6. Hóa môn (Hua Men): Có tên khác là ‘Tàm bế môn", bao gồm 36 tuyệt đỉnh kỹ pháp thi triển bế thủ như tằm nhả tơ y hệt như Thái cực quyền có yếu lý "vận kình như trừu ty" (vận dụng kình lực như kéo sợi tơ) và "tương liên bất đoạn" (liên tục không ngừng), đòn đánh chủ yếu lại thường khóa tay đối thủ như Cầm nã Thủ pháp của Thiếu Lâm, không cho đối thủ thi triển các chiêu thức thủ pháp (đòn tay).
  7. Tự môn (Zi Men): Còn gọi là "Trí môn", do thế quyền khi kết thúc bài thu thức thường thành hình chữ "Chi" hoặc chữ "Nhất" nên có tên là Tự môn, đặc điểm là các tư thế tấn thường không hạ trọng tâm thấp xuống (cao trang) và các chiêu thức thường đánh xa và dài (trường thủ).

Tài liệu của Giáo sư Vũ Đức có chú giải thêm như sau:

"... Theo như ghi chép trong "Nga Mi quyền phổ" thời Thanh thì quyền thuật Nga Mi là:

"Nhất thụ khai ngũ hoa,Ngũ hoa bát diệp phù,Giao giao Nga Mi nguyệt,Quang huy mãn giang hồ".

"Ngũ mai" ở đây là chỉ 5 đại chi phái của Nga Mi... "Bát diệp" là nói đến tám loại quyền thuật của Nga Mi..."